
Cuộc Phục Hưng Long Trọng Nhất
Trong Lịch Sử
Giôna 3
Trong Lịch Sử
Giôna 3
Bạn sẽ làm gì nếu bạn được con cá lớn nôn ọe ra? Kế đó bạn sẽ làm gì? Trước tiên, bạn phải tìm vòi nước rồi hãy tắm cho sạch. Rốt lại, bạn đã bị bao phủ với thứ nhớp nhúa trong ba ngày và ba đêm. Nhưng rồi sao nữa?
Nếu bạn sống trong thế giới hiện đại, có lẽ bạn muốn khởi động một buổi trình diễn rất thực, thực hiện một vài cuộc phỏng vấn, và chia sẻ câu chuyện của bạn cho thế giới biết. Hãy gọi buổi trình diễn ấy là “Buổi trình diễn của Giôna”.
Nếu bạn đã có một kinh nghiệm thuộc linh, bạn sẽ muốn khởi động chính hội thánh của bạn ngay trên bờ biển. Hãy gọi hội thánh ấy là “Hội thánh Cá Voi”.
Và nếu bạn là thầu khoán, bạn sẽ khởi động một công viên nước. Đấy thực sự là thời buổi tân tiến vĩ đại. Bạn có thể làm ra nhiều tiền bạc trong suốt những ngày hè nóng nực nầy. Hãy gọi công viên ấy là “Thế Giới Nước của Giôna".
Nếu bạn suy nghĩ về việc ấy, một người từng sử dụng thời gian trong bụng một con cá lớn có nhiều cơ hội nếu ông ta muốn nắm lấy chúng. Một loại sáng tạo có thể sử dụng kinh nghiệm của mình để thử và tự bắn vào mình kèm theo danh tiếng và sự may mắn.
Bạn làm gì nếu bạn là Giôna? Ở điểm nầy, bạn hãy chờ đợi để Đức Chúa Trời nói cho bạn biết việc phải làm kế đó. Trong trường hợp của Giôna, ông không phải đợi lâu đâu.
Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời được làm mới lại (các câu 1-2)
Giôna 3:1-2 cho chúng ta biết điều chi đã xảy ra kế đó:
Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-na lần thứ hai mà rằng: Ngươi khá chờ dậy! Hãy đi đến thành lớn Ni-ni-ve, và rao cho nó lời ta đã dạy cho ngươi.
Hãy chú ý cụm từ “lần thứ hai”. Giôna đã tiếp lấy cơ hội thứ nhì. Không phải ai trong Kinh thánh cũng tiếp lấy cơ hội thứ hai đâu. Tôi biết rõ khi những nhà truyền đạo rao giảng ở chỗ nầy, chúng ta muốn nói: “Ngài là Đức Chúa Trời của cơ hội thứ nhì”. Song đấy không luôn là sự thực. Không phải ai trong Kinh thánh cũng có được cơ hội thứ nhì.
Hãy hỏi Anania và Saphira.
Hãy hỏi vợ của Lót.
Hãy kiểm tra lại với Vua Saulơ, ông đã bị đuổi ra khỏi địa vị vua vì sự loạn nghịch tội lỗi của ông ta.
Kỳ thực, Đức Chúa Trời đã ban cho Giôna một cơ hội thứ hai không có nghĩa là chúng ta sẽ luôn luôn được ban cho cơ hội thứ nhì khi chúng ta bất tuân đâu. Chúng ta cần phải lắng nghe điều nầy vì có người đã đọc câu chuyện Giôna rồi kết luận: “Sẽ chẳng nhằm nhò gì trong trường hợp tôi vâng lời lần đầu tiên vì tôi luôn luôn có cơ hội thứ nhì”. Không hẳn là thế đâu. Đừng lạm dụng ân điển của Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy giữ cân đối lẽ thật của Kinh thánh.
Đức Chúa Trời luôn luôn nghinh đón những đứa con hoang đàng. Đó là sự thực.
Đèn luôn luôn bật lên trong nhà của Cha. Đó cũng là sự thực.
Còn Giôna không biết trong bụng con cá lớn điều chi sẽ xảy ra nếu và khi ông được nhả ra.
Sự thực đáng khích lệ ở đây, ấy là sự bất tuân của Giôna đã không hủy đi ơn kêu gọi. Sứ điệp của Đức Chúa Trời là: “Hãy đi đến thành Nineve. Và đừng lộn xộn nữa lần nầy nhé”. Chúng ta dám nói rằng có những tin tức tốt lành và các tin xấu ở đây. Tin tức tốt lành là, Đức Chúa Trời đã không nhượng bộ đối với Giôna. Còn tin xấu là, Ngài vẫn muốn ông đi đến thành Nineve.
Chúng ta có thể tiếp thu vài lẽ thật quan trọng từ chỗ nầy:
1. Đức Chúa Trời không giữ lấy ác cảm.
Ngài là Đức Chúa Trời “tha thứ dồi dào” hạng tội nhân khi họ đến với Ngài. Ngài đã chứng tỏ ân điển của Ngài bằng cách làm mới lại ơn kêu gọi trên đời sống của Giôna.
2. Đức Chúa Trời không làm nhẹ đi gánh nặng.
Phần kia cũng đúng không kém. Giống như thể Đức Chúa Trời đã phán: “Được thôi, Giôna ơi, ta lo liệu việc ấy. Ngươi không muốn đi đến thành Ninive, vì vậy ta muốn ngươi đem lời ta đến Tarêsi nếu như đấy là chỗ mà người sẽ đến cho dù là thế nào”. Đấy chẳng phải là cách sự việc xảy ra. Đức Chúa Trời không thương lượng khi chúng ta loạn nghịch chống lại Ngài.
Đức Chúa Trời ban cho Giôna một cơ hội thứ hai để làm những gì ông đáng phải làm ở lần thứ nhứt.
3. Đức Chúa Trời không bỏ cuộc.
Ngài quan tâm nhiều đến nhân sự hơn là quan tâm đến công việc. Nếu mọi sự Đức Chúa Trời quan tâm đến là thành Nineve, Ngài có thể dùng một người khác. Nhưng Ngài muốn Giôna phải đối mặt với cái ác trong chính tấm lòng của ông và nhìn thấy cái điều yêu thương lớn lao ở bên trong tấm lòng của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời không cần Giôna, nhưng Giôna rất cần đến Đức Chúa Trời. Và chúng ta có thể nói rằng Đức Chúa Trời không cần chúng ta, còn chúng ta thì rất cần đến Ngài. Có khi phải cần đến cả đời thì chúng ta mới có thể nắm bắt được sự thực ấy.
Nếu bạn suy nghĩ đến việc ấy, có vài lý do cho thấy tại sao Giôna vẫn cứ bất tuân đối với Chúa. Trước tiên là sợ hãi. Giôna biết rõ lắm tính độc ác tàn bạo mà người Asiri đã phạm. Đấy là sự hiểu biết rất phổ thông vì (theo các bản tường trình xưa cho biết) người Asiri vốn khoe khoang về thái độ độc ác của họ. Giôna dễ nói với lòng mình: “Ta sẽ chẳng đi đến thành Nineve đâu. Ta sẽ chẳng ở thêm 10 phút ở đó đâu. Ta sẽ trở thành cái thây ma trước khi ta thốt ra một lời".
Kế đó là sự xấu hổ. Khi chúng ta thất bại, ý thức sâu sắc về sự xấu hổ bắt lấy chúng ta và giữ chúng ta không tiến tới nữa. Giôna đã quá xấu hổ không muốn vâng theo Giêhôva nữa.
Sau cùng, có vấn đề thù hận đối với người thành Ninive và mọi lập trường của họ. Như chúng ta nhìn thấy sau đó, trong lần ông ở trong bụng con cá lớn không một điều gì làm thay đổi chiều sâu sự ghê tởm của ông dành cho người Asiri. Ông vẫn muốn thấy họ phải đi Địa Ngục.
Câu 3 nói rằng Giôna đã vâng lời Chúa rồi đi đến thành Ninive. Đây là lần duy nhứt trong sách cho thấy Giôna vâng lời Đức Giêhôva. Trước và sau đoạn nầy, Giôna có một thái độ rất hạn chế, nhưng ở điểm nầy ông vâng theo ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời.
Điều nầy dẫn tới điểm quan trọng khác. Bạn không luôn luôn thích những điều bạn được kêu gọi phải lo làm, nhưng bạn phải làm điều đó cho dù là thế nào đi nữa. Bạn không ưa thích Ninive, nhưng bạn phải ban bố ra sứ điệp của Đức Chúa Trời. Hãy cung ứng cho Giôna quyền của mình.
Ông đã lên khỏi bãi biển, tắm rửa sạch sẽ rồi, và hướng đến thành Ninive.
Thật là hay lắm cho ông.
Điều đó dẫn tôi đến một nguyên tắc quan trọng. Sự vâng phục nhỏ luôn luôn gợi ra những mục đích lớn. Đôi khi chúng ta gạt qua một bên những việc nhỏ vì chúng ta dự tính làm việc gì đó lớn lao vào “một ngày nọ”. Chúng ta mơ tưởng đến những điều chúng ta sẽ làm khi chúng ta có nhiều thì giờ hay nhiều tiền bạc hoặc khi chúng ta không còn bận rộn hay khi con cái rời khỏi học đường hoặc khi chúng ta được thăng chức hay khi chúng ta được kêu gọi đến với một Hội thánh khác hoặc khi chúng ta có được một việc làm khá hơn. Hết thảy chúng ta đều có những chương trình lớn mà chúng ta hằng mơ ước đến, có phải không? Không có gì sai với những chương trình lớn cả.
Nhưng sự vâng phục nhỏ từng hồi gợi ra những chương trình to lớn. Chúng ta có thể mơ ước nhiều về ngày mai đến nỗi chúng ta chễnh mãng không lo làm những việc nhỏ mà chúng ta đáng phải làm hôm nay.
Vì vậy Giôna mới nhắm hướng đến thành Ninive, từng bước chơn đưa ông bước đi trên con đường xung đột giữa thành kiến của ông, sự ngạo mạn của người thành Ninive, và tình yêu vô hạn của Đức Chúa Trời.
Câu 3 gọi Ninive là “một thành rất lớn”. Theo bản Kinh thánh Hybálai thì nói rằng thành Ninive là một “thành lớn đối với Đức Chúa Trời”. Nhưng làm sao như thế mới được chứ?
Họ không tin Đức Chúa Trời.
Họ không nhận biết Đức Chúa Trời.
Họ thờ lạy hình tượng.
Ninive là một thành được nói tới là tham lam, phi luân, và bạo lực khát máu. Dân chúng chẳng biết gì về Đức Chúa Trời của Kinh thánh. Họ tham tàn trong sự độc dữ của họ.
Và Đức Chúa Trời phán: “Thành ấy là lớn đối với Ta”.
“Thành lớn ấy” vẫn nằm trong tấm lòng của Đức Chúa Trời!
Đức Chúa Trời yêu thương các thành lớn của thế gian. Đấy là việc quan trọng cần phải biết vì trong một vài năm qua, các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu các sự chuyển dịch lớn dân sự cho chúng ta biết rằng lần đầu tiên trong lịch sử có nhiều người sống trong thành thị hơn là sống trong các khu vực nông thôn. Trong một thời gian dài, trong mấy ngàn năm, dân số ở nông thôn thì đông hơn dân số ở thành thị.
Điều đó không còn đúng nữa.
Ngày nay có nhiều người sống trong thành thị hơn là sống ở các nông trại hay các thị trấn nhỏ hoặc ở các làng quê. Chúng ta sống trong một thế giới ngày càng đô thị hóa, và khuynh hướng ấy sẽ càng tăng thêm trong tương lai.
Năm 1903 Frank North đã viết một bài thánh ca nói tới tốc độ điên cuồng của thành phố được gọi là Nơi Ngã Tư Đường Đông Đúc Của Cuộc Sống. Sau đây là câu đầu tiên:
Nếu bạn đã có một kinh nghiệm thuộc linh, bạn sẽ muốn khởi động chính hội thánh của bạn ngay trên bờ biển. Hãy gọi hội thánh ấy là “Hội thánh Cá Voi”.
Và nếu bạn là thầu khoán, bạn sẽ khởi động một công viên nước. Đấy thực sự là thời buổi tân tiến vĩ đại. Bạn có thể làm ra nhiều tiền bạc trong suốt những ngày hè nóng nực nầy. Hãy gọi công viên ấy là “Thế Giới Nước của Giôna".
Nếu bạn suy nghĩ về việc ấy, một người từng sử dụng thời gian trong bụng một con cá lớn có nhiều cơ hội nếu ông ta muốn nắm lấy chúng. Một loại sáng tạo có thể sử dụng kinh nghiệm của mình để thử và tự bắn vào mình kèm theo danh tiếng và sự may mắn.
Bạn làm gì nếu bạn là Giôna? Ở điểm nầy, bạn hãy chờ đợi để Đức Chúa Trời nói cho bạn biết việc phải làm kế đó. Trong trường hợp của Giôna, ông không phải đợi lâu đâu.
Sự kêu gọi của Đức Chúa Trời được làm mới lại (các câu 1-2)
Giôna 3:1-2 cho chúng ta biết điều chi đã xảy ra kế đó:
Lại có lời Đức Giê-hô-va phán cùng Giô-na lần thứ hai mà rằng: Ngươi khá chờ dậy! Hãy đi đến thành lớn Ni-ni-ve, và rao cho nó lời ta đã dạy cho ngươi.
Hãy chú ý cụm từ “lần thứ hai”. Giôna đã tiếp lấy cơ hội thứ nhì. Không phải ai trong Kinh thánh cũng tiếp lấy cơ hội thứ hai đâu. Tôi biết rõ khi những nhà truyền đạo rao giảng ở chỗ nầy, chúng ta muốn nói: “Ngài là Đức Chúa Trời của cơ hội thứ nhì”. Song đấy không luôn là sự thực. Không phải ai trong Kinh thánh cũng có được cơ hội thứ nhì.
Hãy hỏi Anania và Saphira.
Hãy hỏi vợ của Lót.
Hãy kiểm tra lại với Vua Saulơ, ông đã bị đuổi ra khỏi địa vị vua vì sự loạn nghịch tội lỗi của ông ta.
Kỳ thực, Đức Chúa Trời đã ban cho Giôna một cơ hội thứ hai không có nghĩa là chúng ta sẽ luôn luôn được ban cho cơ hội thứ nhì khi chúng ta bất tuân đâu. Chúng ta cần phải lắng nghe điều nầy vì có người đã đọc câu chuyện Giôna rồi kết luận: “Sẽ chẳng nhằm nhò gì trong trường hợp tôi vâng lời lần đầu tiên vì tôi luôn luôn có cơ hội thứ nhì”. Không hẳn là thế đâu. Đừng lạm dụng ân điển của Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy giữ cân đối lẽ thật của Kinh thánh.
Đức Chúa Trời luôn luôn nghinh đón những đứa con hoang đàng. Đó là sự thực.
Đèn luôn luôn bật lên trong nhà của Cha. Đó cũng là sự thực.
Còn Giôna không biết trong bụng con cá lớn điều chi sẽ xảy ra nếu và khi ông được nhả ra.
Sự thực đáng khích lệ ở đây, ấy là sự bất tuân của Giôna đã không hủy đi ơn kêu gọi. Sứ điệp của Đức Chúa Trời là: “Hãy đi đến thành Nineve. Và đừng lộn xộn nữa lần nầy nhé”. Chúng ta dám nói rằng có những tin tức tốt lành và các tin xấu ở đây. Tin tức tốt lành là, Đức Chúa Trời đã không nhượng bộ đối với Giôna. Còn tin xấu là, Ngài vẫn muốn ông đi đến thành Nineve.
Chúng ta có thể tiếp thu vài lẽ thật quan trọng từ chỗ nầy:
1. Đức Chúa Trời không giữ lấy ác cảm.
Ngài là Đức Chúa Trời “tha thứ dồi dào” hạng tội nhân khi họ đến với Ngài. Ngài đã chứng tỏ ân điển của Ngài bằng cách làm mới lại ơn kêu gọi trên đời sống của Giôna.
2. Đức Chúa Trời không làm nhẹ đi gánh nặng.
Phần kia cũng đúng không kém. Giống như thể Đức Chúa Trời đã phán: “Được thôi, Giôna ơi, ta lo liệu việc ấy. Ngươi không muốn đi đến thành Ninive, vì vậy ta muốn ngươi đem lời ta đến Tarêsi nếu như đấy là chỗ mà người sẽ đến cho dù là thế nào”. Đấy chẳng phải là cách sự việc xảy ra. Đức Chúa Trời không thương lượng khi chúng ta loạn nghịch chống lại Ngài.
Đức Chúa Trời ban cho Giôna một cơ hội thứ hai để làm những gì ông đáng phải làm ở lần thứ nhứt.
3. Đức Chúa Trời không bỏ cuộc.
Ngài quan tâm nhiều đến nhân sự hơn là quan tâm đến công việc. Nếu mọi sự Đức Chúa Trời quan tâm đến là thành Nineve, Ngài có thể dùng một người khác. Nhưng Ngài muốn Giôna phải đối mặt với cái ác trong chính tấm lòng của ông và nhìn thấy cái điều yêu thương lớn lao ở bên trong tấm lòng của Đức Chúa Trời.
Đức Chúa Trời không cần Giôna, nhưng Giôna rất cần đến Đức Chúa Trời. Và chúng ta có thể nói rằng Đức Chúa Trời không cần chúng ta, còn chúng ta thì rất cần đến Ngài. Có khi phải cần đến cả đời thì chúng ta mới có thể nắm bắt được sự thực ấy.
Nếu bạn suy nghĩ đến việc ấy, có vài lý do cho thấy tại sao Giôna vẫn cứ bất tuân đối với Chúa. Trước tiên là sợ hãi. Giôna biết rõ lắm tính độc ác tàn bạo mà người Asiri đã phạm. Đấy là sự hiểu biết rất phổ thông vì (theo các bản tường trình xưa cho biết) người Asiri vốn khoe khoang về thái độ độc ác của họ. Giôna dễ nói với lòng mình: “Ta sẽ chẳng đi đến thành Nineve đâu. Ta sẽ chẳng ở thêm 10 phút ở đó đâu. Ta sẽ trở thành cái thây ma trước khi ta thốt ra một lời".
Kế đó là sự xấu hổ. Khi chúng ta thất bại, ý thức sâu sắc về sự xấu hổ bắt lấy chúng ta và giữ chúng ta không tiến tới nữa. Giôna đã quá xấu hổ không muốn vâng theo Giêhôva nữa.
Sau cùng, có vấn đề thù hận đối với người thành Ninive và mọi lập trường của họ. Như chúng ta nhìn thấy sau đó, trong lần ông ở trong bụng con cá lớn không một điều gì làm thay đổi chiều sâu sự ghê tởm của ông dành cho người Asiri. Ông vẫn muốn thấy họ phải đi Địa Ngục.
Câu 3 nói rằng Giôna đã vâng lời Chúa rồi đi đến thành Ninive. Đây là lần duy nhứt trong sách cho thấy Giôna vâng lời Đức Giêhôva. Trước và sau đoạn nầy, Giôna có một thái độ rất hạn chế, nhưng ở điểm nầy ông vâng theo ơn kêu gọi của Đức Chúa Trời.
Điều nầy dẫn tới điểm quan trọng khác. Bạn không luôn luôn thích những điều bạn được kêu gọi phải lo làm, nhưng bạn phải làm điều đó cho dù là thế nào đi nữa. Bạn không ưa thích Ninive, nhưng bạn phải ban bố ra sứ điệp của Đức Chúa Trời. Hãy cung ứng cho Giôna quyền của mình.
Ông đã lên khỏi bãi biển, tắm rửa sạch sẽ rồi, và hướng đến thành Ninive.
Thật là hay lắm cho ông.
Điều đó dẫn tôi đến một nguyên tắc quan trọng. Sự vâng phục nhỏ luôn luôn gợi ra những mục đích lớn. Đôi khi chúng ta gạt qua một bên những việc nhỏ vì chúng ta dự tính làm việc gì đó lớn lao vào “một ngày nọ”. Chúng ta mơ tưởng đến những điều chúng ta sẽ làm khi chúng ta có nhiều thì giờ hay nhiều tiền bạc hoặc khi chúng ta không còn bận rộn hay khi con cái rời khỏi học đường hoặc khi chúng ta được thăng chức hay khi chúng ta được kêu gọi đến với một Hội thánh khác hoặc khi chúng ta có được một việc làm khá hơn. Hết thảy chúng ta đều có những chương trình lớn mà chúng ta hằng mơ ước đến, có phải không? Không có gì sai với những chương trình lớn cả.
Nhưng sự vâng phục nhỏ từng hồi gợi ra những chương trình to lớn. Chúng ta có thể mơ ước nhiều về ngày mai đến nỗi chúng ta chễnh mãng không lo làm những việc nhỏ mà chúng ta đáng phải làm hôm nay.
Vì vậy Giôna mới nhắm hướng đến thành Ninive, từng bước chơn đưa ông bước đi trên con đường xung đột giữa thành kiến của ông, sự ngạo mạn của người thành Ninive, và tình yêu vô hạn của Đức Chúa Trời.
Câu 3 gọi Ninive là “một thành rất lớn”. Theo bản Kinh thánh Hybálai thì nói rằng thành Ninive là một “thành lớn đối với Đức Chúa Trời”. Nhưng làm sao như thế mới được chứ?
Họ không tin Đức Chúa Trời.
Họ không nhận biết Đức Chúa Trời.
Họ thờ lạy hình tượng.
Ninive là một thành được nói tới là tham lam, phi luân, và bạo lực khát máu. Dân chúng chẳng biết gì về Đức Chúa Trời của Kinh thánh. Họ tham tàn trong sự độc dữ của họ.
Và Đức Chúa Trời phán: “Thành ấy là lớn đối với Ta”.
“Thành lớn ấy” vẫn nằm trong tấm lòng của Đức Chúa Trời!
Đức Chúa Trời yêu thương các thành lớn của thế gian. Đấy là việc quan trọng cần phải biết vì trong một vài năm qua, các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu các sự chuyển dịch lớn dân sự cho chúng ta biết rằng lần đầu tiên trong lịch sử có nhiều người sống trong thành thị hơn là sống trong các khu vực nông thôn. Trong một thời gian dài, trong mấy ngàn năm, dân số ở nông thôn thì đông hơn dân số ở thành thị.
Điều đó không còn đúng nữa.
Ngày nay có nhiều người sống trong thành thị hơn là sống ở các nông trại hay các thị trấn nhỏ hoặc ở các làng quê. Chúng ta sống trong một thế giới ngày càng đô thị hóa, và khuynh hướng ấy sẽ càng tăng thêm trong tương lai.
Năm 1903 Frank North đã viết một bài thánh ca nói tới tốc độ điên cuồng của thành phố được gọi là Nơi Ngã Tư Đường Đông Đúc Của Cuộc Sống. Sau đây là câu đầu tiên:
Nơi ngã tư đường đông đúc của cuộc sống,
Nơi có tiếng kêu la của cuộc chạy đua và phe đảng
Bên trên tiếng ồn ào tranh cạnh ích kỷ,
Ôi hỡi Con Người, chúng tôi nghe tiếng Ngài.
Nơi có tiếng kêu la của cuộc chạy đua và phe đảng
Bên trên tiếng ồn ào tranh cạnh ích kỷ,
Ôi hỡi Con Người, chúng tôi nghe tiếng Ngài.
Đức Chúa Trời vốn quan tâm đến các thành phố lớn của thế giới. Ngài quan tâm đến các thành thị lớn nơi hàng triệu người sống chen chúc nhau trong đó. Đức Chúa Trời có tấm lòng dành cho thành phố Mexico, cho Đông Kinh, cho Manila, cho Bắc kinh, cho các thành phố như Dacca và Port-au-Prince. Nếu chúng ta có tấm lòng của Đức Chúa Trời, chúng ta cũng sẽ quan tâm đến các thành phố nữa.
Ninive là một nơi mà ở đó chẳng có lý do gì Đức Chúa Trời sẽ ngự đến. Song cái điều hợp lý chẳng có việc gì làm với nó cả. Đức Chúa Trời của chúng ta có một tấm lòng còn lớn hơn cả những toan tính “hợp lý” của chúng ta. Ngài yêu thành phố và tấm lòng của Ngài với tới những kẻ chẳng có việc gì phải làm với Ngài.
Sứ điệp đơn sơ của Giôna (các câu 3-4).
Vì thế Giôna đã tới đến tại thành Ninive. Phân đoạn Kinh thánh nói rằng phải mất ba ngày để qua đến thành ấy. Nói như thế có nghĩa là phải mất ba ngày để băng qua từng phần hoặc nói như thế có nghĩa là phải mất ba ngày mới đi hết con đường bao quanh thành ấy. Ai nấy đều đồng ý rằng Ninive là thủ phủ chính của thế giới cổ nhưng có một số tranh cãi về sự to lớn của nó. Đại loại như sau: “Đâu là dân số của thành phố Nữu Ước?” Có phải bạn muốn nói tới Manhattan? Hay bạn muốn nói tới Manhattan và Brooklyn? Hoặc bạn muốn nói tới tất cả các quận cộng lại với nhau? Hay bạn muốn nói tới khu vực đô thị rộng lớn hơn? Bạn sẽ nhận được những câu trả lời khác nhau cho từng câu hỏi. Nhiều học giả nói cho chúng ta biết rằng giống như các phố thị hiện đại ngày nay, “thành Ninive rất lớn” bao gồm các thị trấn nhỏ gần đó. Nếu bạn lấy toàn bộ khu vực để xem xét, Ninive có thể là ngôi nhà cho 600.000 người, nó sẽ là một siêu đô thị trong thời ấy.
Vì vậy, Giôna đi và bắt đầu rao giảng trong thành phố tà giáo nầy. Sứ điệp của ông rất đơn sơ: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống” (câu 4). Chỉ bấy nhiêu thôi. Đấy là toàn bộ sứ điệp của ông. Chỉ có 8 chữ trong Anh ngữ; chỉ có 4 chữ trong tiếng Hybálai.
Thành thực mà nói, tôi chưa hề giảng một sứ điệp nào có 8 chữ trong cuộc đời của tôi. Như bạn bè tôi sẽ chứng thực, tôi có khuynh hướng hay rườm rà vào một số thời điểm, tôi hay lặp đi lặp lại, rồi nói cùng một việc thật nhiều lần, như tôi đang làm với câu nầy. Vì vậy, tôi chưa hề làm những gì mà Giôna đã làm.
Tám chữ.
“Forty more days and Ninive will be overthrown” “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”.
Một sứ điệp khá thất vọng nếu bạn tra hỏi tôi.
Chẳng có câu nào trong số nầy “Đức Chúa Trời yêu thương thành Ninive” hoặc “thành Ninive dành cho Chúa Jêsus” hay “Hỡi thành Ninive, hãy đáp vâng đi”.
Một sứ điệp nói tới sự phán xét sắp xảy ra và chẳng có gì khác hơn nữa.
Bạn có thể hình dung được sự phán xét ấy không?
“Forty more days and Ninive will be overthrown” (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”).
(Bạn biết đấy, ông không đến từ quanh đây)
“Forty more days and Ninive will be overthrown” (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”).
(Ông có giọng nói thật là lạ)
“Forty more days and Ninive will be overthrown” (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”).
(Ông có mùi giống như cá vậy).
Đấy chẳng phải là phương thức mà chúng ta sẽ làm công việc ấy. Nếu chúng ta cùng nhau đề ra một chiến dịch “Ninive cho Chúa Jêsus”, chúng ta phải thuê trước một đội ngũ, đưa ra một chiến dịch quảng bá, mua biển quảng cáo, thực hiện việc truyền thông trong xã hội, mở một trang Facebook, tổ chức đội Twitter ra đi, in áo sơmi quảng cáo “Ninive cho Chúa Jêsus”, mở lớp huấn luyện, sắp đặt một số xe bus, đào tạo các nhân viên tư vấn, thuê một sân vận động, cần có một số thời gian trên vô tuyến truyền hình, tuyển dụng chuyên viên tư vấn, in ấn các tư liệu, tổ chức những buổi nhóm cầu nguyện ở tư gia, sửa soạn các bản dịch sao cho hợp lẽ, tập dợt ca đoàn, rồi tổ chức Chiến Dịch Anh-rê. Chúng ta phải vận động có 3 triệu USD thì mới dám khởi động.
Giôna đã gạt bỏ mọi sự ấy.
Ông chỉ đi đến thành Ninive rồi ban ra toàn bộ bài giảng của ông chỉ có tám chữ mà thôi.
Bạn không nghĩ sự việc ấy sẽ chẳng có nhiều cơ hội để thành công.
“Vì vậy, đâu là kế hoạch của bạn cho việc đến với thành Ninive?”
"Chúng ta sẽ gửi Giôna đến".
"Còn ai khác không?"
"Không có ai khác hết”.
"Ông ấy sẽ làm gì nào?”
"Đi vòng quanh rồi rao ra bài giảng có 8 chữ mà thôi”.
“Đâu là bài giảng có 8 chữ?”
“Forty more days and Ninive will be overthrown” (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”).
“Đâu là kế hoạch B của bạn?”
“Chẳng có Kế Hoạch B gì hết. Chỉ bấy nhiêu thôi”.
Đồng thời, tại sao bạn nghĩ Giôna tập trung vào sự phán xét hầu đến chứ? Vì đấy là mọi sự mà ông quan tâm đến. Ông hy vọng thành Ninive sẽ bị hủy diệt, và ông sẽ vui sướng nếu việc ấy xảy ra trong vòng bốn mươi ngày. Hãy nói điều chi bạn muốn, chẳng có ai dám tố cáo Giôna là một nhà truyền đạo của “ân điển rẻ rúng” cả. Ông là một nhà truyền đạo không khoan nhượng nói tới sự phán xét của Đức Chúa Trời, ông sẽ vui sướng khi nhìn thấy sự phán xét ấy xảy đến thực sự trong bốn mươi ngày nữa.
Khi bạn đứng lui lại rồi suy gẫm về việc ấy, dường như điều nầy giống như một sự truyền giáo tiếp cận đầy hứa hẹn vậy. Nhưng đây là một sự thực mà bản thân Giôna đã không hiểu. Ninive đã chín muồi cho sự tỉnh thức song chẳng có ai nhìn biết như thế.
Giôna không biết việc ấy.
Ninive không biết việc ấy.
Nhưng Đức Chúa Trời vốn biết rõ việc ấy.
Tôi không nghĩ có điều chi bề ngoài đang hứa hẹn về Ninive là một chốn thích ứng cho một sự thức tỉnh mạnh mẽ về mặt thuộc linh. Từ bề ngoài, nó tỏ ra là một thành phố đã được dành cho tà giáo. Nhưng Đức Chúa Trời đang hành động ở đàng sau bối cảnh, sửa soạn cho dân sự về chính thời điểm nầy.
Sự ăn năn đột ngột của thành Ninive (các câu 5-9).
Hãy chú ý những gì đã xảy ra khi Giôna rao giảng: Dân thành Ninive tin Đức Chúa Trời (câu 5).
Kinh thánh không nói họ tin theo Giôna, mặc dù điều nầy cũng rất thực. Kinh thánh nói họ tin Đức Chúa Trời, nhờ đó tỏ ra bản chất thực của đức tin họ. E chúng ta hồ nghi điều nầy, hãy xem xét phân nửa sau của câu 5:
Họ rao ra sự kiêng ăn và mặc bao gai, từ những người rất lớn trong đám họ cho đến những kẻ rất nhỏ.
Nhà vua đã đứng dậy (một dấu nói tới sự nhiệt thành của ông ta), cởi long bào ra (một dấu chỉ ra sự hạ mình), dùng bao gai quấn mình (một dấu khóc than), rồi ngồi trong tro bụi (một dấu hiệu cho thấy ăn năn).
Kế đó, ông truyền ban một thời điểm kiêng ăn và cầu nguyện, vì như ông nói: "Ai biết rằng hoặc Đức Chúa Trời sẽ không xây lại và ăn năn, xây khỏi cơn nóng giận mình, hầu cho chúng ta khỏi chết, hay sao?" (câu 9).
Nhà vua đầy quyền lực của Ninive đã tiếp lấy sứ điệp. Ông ta biết họ đã phạm tội. Ông ta kể tới ơn thương xót của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Ông ta không dám chắc. Song ông ta nghĩ Đức Chúa Trời có thể giáng ơn thương xót xuống thành Ninive.
Mặc dù tôi dám chắc ông ta chưa hề đọc mấy lời nầy, sự thực cho thấy giống như thể ông đã học thuộc lòng Êsai 55:6-7.
“Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần! Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng; hãy trở lại cùng Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến cùng Đức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào”.
Vua của thành Ninive hành xử giống như thể ông đã biết rõ phân đoạn Kinh thánh ấy trọn cả đời ông vậy. Những gì nối theo sau là cơn phấn hưng vĩ đại nhất trong lịch sử.
Cả thành phố đã ăn năn. Hết thảy họ đều tin Đức Chúa Trời. George Whitefield chưa hề nhìn thấy việc gì giống như sự việc nầy. D. L. Moody hay Billy Sunday cũng vậy. Không một điều nào giống như điều nầy từng xảy ra trong chức vụ toàn cầu của Billy Graham.
Hãy suy nghĩ xem! Một thành phố toàn bộ tà giáo đã tin theo Đức Chúa Trời.
Chúng ta hồ nghi việc ấy vì dường như việc ấy quá sức tưởng tượng.
Chúng ta chưa hề thấy hay nghe một việc nào giống như vậy cả.
Giống như nói: . . .
Mọi người ở Đông Kinh tin theo Đức Chúa Trời. Mọi người ở Singapore đều ăn năn. Ai nấy ở Dacca đều trở thành Cơ đốc nhân.
Hay chúng ta sẽ nói như vầy:
Toàn bộ thành phố San Francisco đã làm hòa lại với Đức Chúa Trời.
Cleveland đã xây lại với Chúa.
Boston đã quì xuống trên hai đầu gối mình.
Việc nầy chỉ là hiện tượng, không thể tin nổi, thật lạ thường.
Tuy nhiên, điều đó đã xảy ra.
Cơn phấn hưng vĩ đại nhất trong lịch sử đã xảy ra vì cớ bài giảng có một câu do vị tiên tri rao ra, ông là người thậm chí không muốn đến tại đó, ông đang trông mong sự hủy diệt đến, và ông thù ghét thứ dân mà ông phải giảng đạo cho.
Đâu là những cơ hội cho việc xảy ra đó? Không có Đức Chúa Trời, cơ hội chỉ là con số 0. Tại sao điều nầy xảy ra? Không phải vì cớ Giôna đâu. Thậm chí ông còn không muốn đến đó nữa là.
Làm sao mà điều nầy có thể xảy ra trong một thành phố tà giáo giống như thành Ninive cho được chứ? Sự thể xảy ra vì cớ cụm từ quan trọng nhất trong Kinh thánh: “trừ ra Đức Chúa Trời!”
Bạn không bao giờ biết Đức Chúa Trời sẽ làm gì đâu!
Bạn không bao giờ biết Ngài sẽ chạm đến ai kế đó. Thành Ninive đã chín muồi cho cơn phấn hưng. Họ chỉ không nhìn biết đấy thôi.
Nhưng Đức Chúa Trời biết.
Đáp ứng giàu ơn của Đức Chúa Trời (câu 10).
Chúng ta nhìn thấy phần cuối của câu chuyện ở câu 10:
Bấy giờ Đức Chúa Trời thấy việc họ làm đều đã xây bỏ đường lối xấu của mình; Đức Chúa Trời bèn ăn năn sự họa mà Ngài đã phán sẽ làm cho họ, và Ngài không làm sự đó.
Đôi khi chúng ta vấp ngã qua sự việc nầy vì một số bản dịch xưa chép rằng Đức Chúa Trời “đã ăn năn”. Một từ hay hơn sẽ là “dịu lại". Đức Chúa Trời luôn luôn dự trù tỏ ra ơn thương xót trên người nào xây khỏi mọi lối ác của họ. Ngài đe dọa sự phán xét (là điều đáng cho họ lắm) với sự nhận biết rằng Ngài sẽ lấy làm vui tha thứ cho họ một khi họ xây lại với Ngài.
Cho phép tôi nhấn mạnh sự kiện quan trọng nhất thêm một lần nữa. Chẳng có ai lường trước được sự việc nầy cả. Ba ngày trước khi Giôna xuất hiện, trong thành Ninive mọi sinh hoạt đều bình thường. Hai ngày trước, vẫn y nguyên như thế. Một ngày trước, chẳng có người nào nghi ngại điều gì sắp xảy ra. Và vào chính ngày đó, nhà vua thức giấc trong cung điện mình sẵn sàng thực hiện bất cứ điều chi trong lịch trình của ông ta, với sự nhận biết rất ít rằng đến cuối ngày ông ta sẽ mặc áo bao gai rồi ngồi trong tro bụi, kêu gọi dân sự mình cầu nguyện và ăn năn.
Khi tôi nói “chẳng có ai biết”, tôi đã sẵn sàng thêm cụm từ “trừ ra Đức Chúa Trời".
Đức Chúa Trời vốn biết rõ mọi sự từ lâu rồi.
Ngài vốn bận rộn hành động trong thành phố tà giáo ấy đủ lâu trước khi Giôna xuất hiện.
Một vài thắc mắc và chúng ta sẽ hoàn tất.
1. Người thành Ninive biết cở nào chứ? Không quá nhiều đâu, nhưng đủ cho họ tin. Họ đã tin theo Đức Chúa Trời và đã hành động trên những gì họ tin.
2. Đức tin làm việc cở nào để được cứu? Không quá nhiều đâu, bao lâu đức tin của bạn đặt đúng đối tượng.
3. Điều nầy có thực sự xảy ra không? Giôna 3 trình bày điều nầy cho chúng ta giống như một sự kiện rất thực về mặt lịch sử. Nếu việc nầy đã xảy ra vào năm 765TC, bằng cách nào chúng ta tính quân Asiri đã tấn công Israel rồi chiếm lấy mười chi phái ở phía Bắc bắt làm phu tù một thế hệ sau đó, vào năm 722TC? Câu trả lời của tôi rất đơn giản. Đây là thời điểm của Ninive và dân sự của thế hệ ấy đã đáp ứng. Mặc dầu sự việc không kéo dài đến thế hệ kế đó, dân sự đáp ứng với sứ điệp của Giôna đã được thay đổi cho đến đời đời.
Hãy xem xét mấy lời nầy của Chúa Jêsus:
Đến ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy với người của dòng dõi nầy và lên án họ, vì dân ấy đã nghe lời Giô-na giảng dạy và ăn năn; mà nầy, ở đây có Đấng hơn Giô-na (Luca 11:32).
Tôi tin sẽ có hàng ngàn người Ninive trên thiên đàng. Đây là thời điểm của Đức Chúa Trời dành cho Ninive và họ đã đáp ứng.
Chúng ta có thể hỏi cùng một câu ấy trong chính thời buổi của chúng ta. Đâu là tương lai của nước Mỹ? Chúng ta còn có nhiều thời gian không? Đôi khi chúng ta nhìn vào sự xói mòn đạo đức ở chung quanh chúng ta rồi nghĩ rằng sự phán xét của Đức Chúa Trời không còn ở xa nữa. Có lẽ chúng ta đang ở dưới sự phán xét vào thời điểm nầy mà thậm chí chưa nhận ra nó nữa.
Nhưng phần nghiên cứu nầy về Giôna 3 đã khích lệ chúng ta theo một cách khác. Có lẽ chúng ta đang sống gần với cơn tỉnh thức quan trọng hơn là chúng ta đã tưởng tượng. Jack Wyrtzen, nhà sáng lập Word of Life, chức vụ quan trọng toàn cầu dành cho thanh niên, ông thường hay nói: “Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm đưa thế hệ của họ về với Đấng Christ”. Nếu bạn đến viếng Trung Tâm Jack Wyrtzen đặt tại Nữu Ước, bạn sẽ nhìn thấy mấy chữ đó được khắc trên tấm hình của Jack đang rao giảng cho một đoàn dân đông ở thành phố Nữu Ước.
Nhưng tiếng của Jack giờ đây đã im bặt. Chúng ta không thể nhìn vào quá khứ rồi nhắm vào những gì người khác đã làm cho Đấng Christ. Chúng ta cũng không sống trong tương lai, suy nghĩ về những gì trẻ em hôm nay có thể làm ba mươi năm nữa tính từ bây giờ. Thế hệ duy nhứt chúng ta có thể với tới là chính thế hệ của chúng ta.
Chúng ta sẽ phải trình sổ về mọi điều chúng ta đã làm với những cơ hội Đức Chúa Trời đã ban cho.
Có phải chúng ta thôi không còn tin rằng Đức Chúa Trời có thể với tới hạng người không thể với tới được sao?
Có phải chúng ta thôi không còn tin rằng Đức Chúa Trời có thể làm được việc không thể làm?
Có phải chúng ta nhìn quanh rồi thấy mọi việc xấu xa và nói: “Đó là Ninive. Nó vô vọng sao"?
Đức Chúa Trời yêu thương Ninive!
Chúa Jêsus chạm đến hạng người không thể chạm đến. Chúa Jêsus với tới hạng người không thể với tới. Chúa Jêsus có thể cứu lấy thành Ninive.
Nhưng Đức Chúa Trời có thể cứu Giôna sao? Nếu như Đức Chúa Trời không yêu thương thế giới mà vị tiên tri lưỡng lự kia chẳng màng đến, thì sẽ ra sao? Hãy suy nghĩ lại đi. Còn có một chương khác nữa trong câu chuyện kỳ diệu của Giôna.
Lạy Chúa, xin sai phái Lời của Ngài. Xin sử dụng nhân sự Ngài. Xin biến thời điểm nầy thành thời điểm của Ngài. Xin trục xuất hết sự vô tín của chúng con. Xin thêm đức tin cho chúng con. Hãy làm lại những gì Ngài đã làm trong thời của Giôna. Xin ban cho chúng con tấm lòng dành cho thế giới nầy, đặc biệt cho các thành phố lớn trong thế gian. Nguyện chúng con không thất bại trong phần việc đến với thế hệ của chúng con vì cớ Chúa Jêsus. Chúng con cầu nguyện trong danh của Ngài, Amen!
Ninive là một nơi mà ở đó chẳng có lý do gì Đức Chúa Trời sẽ ngự đến. Song cái điều hợp lý chẳng có việc gì làm với nó cả. Đức Chúa Trời của chúng ta có một tấm lòng còn lớn hơn cả những toan tính “hợp lý” của chúng ta. Ngài yêu thành phố và tấm lòng của Ngài với tới những kẻ chẳng có việc gì phải làm với Ngài.
Sứ điệp đơn sơ của Giôna (các câu 3-4).
Vì thế Giôna đã tới đến tại thành Ninive. Phân đoạn Kinh thánh nói rằng phải mất ba ngày để qua đến thành ấy. Nói như thế có nghĩa là phải mất ba ngày để băng qua từng phần hoặc nói như thế có nghĩa là phải mất ba ngày mới đi hết con đường bao quanh thành ấy. Ai nấy đều đồng ý rằng Ninive là thủ phủ chính của thế giới cổ nhưng có một số tranh cãi về sự to lớn của nó. Đại loại như sau: “Đâu là dân số của thành phố Nữu Ước?” Có phải bạn muốn nói tới Manhattan? Hay bạn muốn nói tới Manhattan và Brooklyn? Hoặc bạn muốn nói tới tất cả các quận cộng lại với nhau? Hay bạn muốn nói tới khu vực đô thị rộng lớn hơn? Bạn sẽ nhận được những câu trả lời khác nhau cho từng câu hỏi. Nhiều học giả nói cho chúng ta biết rằng giống như các phố thị hiện đại ngày nay, “thành Ninive rất lớn” bao gồm các thị trấn nhỏ gần đó. Nếu bạn lấy toàn bộ khu vực để xem xét, Ninive có thể là ngôi nhà cho 600.000 người, nó sẽ là một siêu đô thị trong thời ấy.
Vì vậy, Giôna đi và bắt đầu rao giảng trong thành phố tà giáo nầy. Sứ điệp của ông rất đơn sơ: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống” (câu 4). Chỉ bấy nhiêu thôi. Đấy là toàn bộ sứ điệp của ông. Chỉ có 8 chữ trong Anh ngữ; chỉ có 4 chữ trong tiếng Hybálai.
Thành thực mà nói, tôi chưa hề giảng một sứ điệp nào có 8 chữ trong cuộc đời của tôi. Như bạn bè tôi sẽ chứng thực, tôi có khuynh hướng hay rườm rà vào một số thời điểm, tôi hay lặp đi lặp lại, rồi nói cùng một việc thật nhiều lần, như tôi đang làm với câu nầy. Vì vậy, tôi chưa hề làm những gì mà Giôna đã làm.
Tám chữ.
“Forty more days and Ninive will be overthrown” “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”.
Một sứ điệp khá thất vọng nếu bạn tra hỏi tôi.
Chẳng có câu nào trong số nầy “Đức Chúa Trời yêu thương thành Ninive” hoặc “thành Ninive dành cho Chúa Jêsus” hay “Hỡi thành Ninive, hãy đáp vâng đi”.
Một sứ điệp nói tới sự phán xét sắp xảy ra và chẳng có gì khác hơn nữa.
Bạn có thể hình dung được sự phán xét ấy không?
“Forty more days and Ninive will be overthrown” (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”).
(Bạn biết đấy, ông không đến từ quanh đây)
“Forty more days and Ninive will be overthrown” (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”).
(Ông có giọng nói thật là lạ)
“Forty more days and Ninive will be overthrown” (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”).
(Ông có mùi giống như cá vậy).
Đấy chẳng phải là phương thức mà chúng ta sẽ làm công việc ấy. Nếu chúng ta cùng nhau đề ra một chiến dịch “Ninive cho Chúa Jêsus”, chúng ta phải thuê trước một đội ngũ, đưa ra một chiến dịch quảng bá, mua biển quảng cáo, thực hiện việc truyền thông trong xã hội, mở một trang Facebook, tổ chức đội Twitter ra đi, in áo sơmi quảng cáo “Ninive cho Chúa Jêsus”, mở lớp huấn luyện, sắp đặt một số xe bus, đào tạo các nhân viên tư vấn, thuê một sân vận động, cần có một số thời gian trên vô tuyến truyền hình, tuyển dụng chuyên viên tư vấn, in ấn các tư liệu, tổ chức những buổi nhóm cầu nguyện ở tư gia, sửa soạn các bản dịch sao cho hợp lẽ, tập dợt ca đoàn, rồi tổ chức Chiến Dịch Anh-rê. Chúng ta phải vận động có 3 triệu USD thì mới dám khởi động.
Giôna đã gạt bỏ mọi sự ấy.
Ông chỉ đi đến thành Ninive rồi ban ra toàn bộ bài giảng của ông chỉ có tám chữ mà thôi.
Bạn không nghĩ sự việc ấy sẽ chẳng có nhiều cơ hội để thành công.
“Vì vậy, đâu là kế hoạch của bạn cho việc đến với thành Ninive?”
"Chúng ta sẽ gửi Giôna đến".
"Còn ai khác không?"
"Không có ai khác hết”.
"Ông ấy sẽ làm gì nào?”
"Đi vòng quanh rồi rao ra bài giảng có 8 chữ mà thôi”.
“Đâu là bài giảng có 8 chữ?”
“Forty more days and Ninive will be overthrown” (“Còn bốn mươi ngày nữa, Ninive sẽ bị đổ xuống”).
“Đâu là kế hoạch B của bạn?”
“Chẳng có Kế Hoạch B gì hết. Chỉ bấy nhiêu thôi”.
Đồng thời, tại sao bạn nghĩ Giôna tập trung vào sự phán xét hầu đến chứ? Vì đấy là mọi sự mà ông quan tâm đến. Ông hy vọng thành Ninive sẽ bị hủy diệt, và ông sẽ vui sướng nếu việc ấy xảy ra trong vòng bốn mươi ngày. Hãy nói điều chi bạn muốn, chẳng có ai dám tố cáo Giôna là một nhà truyền đạo của “ân điển rẻ rúng” cả. Ông là một nhà truyền đạo không khoan nhượng nói tới sự phán xét của Đức Chúa Trời, ông sẽ vui sướng khi nhìn thấy sự phán xét ấy xảy đến thực sự trong bốn mươi ngày nữa.
Khi bạn đứng lui lại rồi suy gẫm về việc ấy, dường như điều nầy giống như một sự truyền giáo tiếp cận đầy hứa hẹn vậy. Nhưng đây là một sự thực mà bản thân Giôna đã không hiểu. Ninive đã chín muồi cho sự tỉnh thức song chẳng có ai nhìn biết như thế.
Giôna không biết việc ấy.
Ninive không biết việc ấy.
Nhưng Đức Chúa Trời vốn biết rõ việc ấy.
Tôi không nghĩ có điều chi bề ngoài đang hứa hẹn về Ninive là một chốn thích ứng cho một sự thức tỉnh mạnh mẽ về mặt thuộc linh. Từ bề ngoài, nó tỏ ra là một thành phố đã được dành cho tà giáo. Nhưng Đức Chúa Trời đang hành động ở đàng sau bối cảnh, sửa soạn cho dân sự về chính thời điểm nầy.
Sự ăn năn đột ngột của thành Ninive (các câu 5-9).
Hãy chú ý những gì đã xảy ra khi Giôna rao giảng: Dân thành Ninive tin Đức Chúa Trời (câu 5).
Kinh thánh không nói họ tin theo Giôna, mặc dù điều nầy cũng rất thực. Kinh thánh nói họ tin Đức Chúa Trời, nhờ đó tỏ ra bản chất thực của đức tin họ. E chúng ta hồ nghi điều nầy, hãy xem xét phân nửa sau của câu 5:
Họ rao ra sự kiêng ăn và mặc bao gai, từ những người rất lớn trong đám họ cho đến những kẻ rất nhỏ.
Nhà vua đã đứng dậy (một dấu nói tới sự nhiệt thành của ông ta), cởi long bào ra (một dấu chỉ ra sự hạ mình), dùng bao gai quấn mình (một dấu khóc than), rồi ngồi trong tro bụi (một dấu hiệu cho thấy ăn năn).
Kế đó, ông truyền ban một thời điểm kiêng ăn và cầu nguyện, vì như ông nói: "Ai biết rằng hoặc Đức Chúa Trời sẽ không xây lại và ăn năn, xây khỏi cơn nóng giận mình, hầu cho chúng ta khỏi chết, hay sao?" (câu 9).
Nhà vua đầy quyền lực của Ninive đã tiếp lấy sứ điệp. Ông ta biết họ đã phạm tội. Ông ta kể tới ơn thương xót của Đức Chúa Trời Toàn Năng. Ông ta không dám chắc. Song ông ta nghĩ Đức Chúa Trời có thể giáng ơn thương xót xuống thành Ninive.
Mặc dù tôi dám chắc ông ta chưa hề đọc mấy lời nầy, sự thực cho thấy giống như thể ông đã học thuộc lòng Êsai 55:6-7.
“Hãy tìm kiếm Đức Giê-hô-va đang khi mình gặp được; hãy kêu cầu đang khi Ngài ở gần! Kẻ ác khá bỏ đường mình, người bất nghĩa khá bỏ các ý tưởng; hãy trở lại cùng Đức Giê-hô-va, Ngài sẽ thương xót cho, hãy đến cùng Đức Chúa Trời chúng ta, vì Ngài tha thứ dồi dào”.
Vua của thành Ninive hành xử giống như thể ông đã biết rõ phân đoạn Kinh thánh ấy trọn cả đời ông vậy. Những gì nối theo sau là cơn phấn hưng vĩ đại nhất trong lịch sử.
Cả thành phố đã ăn năn. Hết thảy họ đều tin Đức Chúa Trời. George Whitefield chưa hề nhìn thấy việc gì giống như sự việc nầy. D. L. Moody hay Billy Sunday cũng vậy. Không một điều nào giống như điều nầy từng xảy ra trong chức vụ toàn cầu của Billy Graham.
Hãy suy nghĩ xem! Một thành phố toàn bộ tà giáo đã tin theo Đức Chúa Trời.
Chúng ta hồ nghi việc ấy vì dường như việc ấy quá sức tưởng tượng.
Chúng ta chưa hề thấy hay nghe một việc nào giống như vậy cả.
Giống như nói: . . .
Mọi người ở Đông Kinh tin theo Đức Chúa Trời. Mọi người ở Singapore đều ăn năn. Ai nấy ở Dacca đều trở thành Cơ đốc nhân.
Hay chúng ta sẽ nói như vầy:
Toàn bộ thành phố San Francisco đã làm hòa lại với Đức Chúa Trời.
Cleveland đã xây lại với Chúa.
Boston đã quì xuống trên hai đầu gối mình.
Việc nầy chỉ là hiện tượng, không thể tin nổi, thật lạ thường.
Tuy nhiên, điều đó đã xảy ra.
Cơn phấn hưng vĩ đại nhất trong lịch sử đã xảy ra vì cớ bài giảng có một câu do vị tiên tri rao ra, ông là người thậm chí không muốn đến tại đó, ông đang trông mong sự hủy diệt đến, và ông thù ghét thứ dân mà ông phải giảng đạo cho.
Đâu là những cơ hội cho việc xảy ra đó? Không có Đức Chúa Trời, cơ hội chỉ là con số 0. Tại sao điều nầy xảy ra? Không phải vì cớ Giôna đâu. Thậm chí ông còn không muốn đến đó nữa là.
Làm sao mà điều nầy có thể xảy ra trong một thành phố tà giáo giống như thành Ninive cho được chứ? Sự thể xảy ra vì cớ cụm từ quan trọng nhất trong Kinh thánh: “trừ ra Đức Chúa Trời!”
Bạn không bao giờ biết Đức Chúa Trời sẽ làm gì đâu!
Bạn không bao giờ biết Ngài sẽ chạm đến ai kế đó. Thành Ninive đã chín muồi cho cơn phấn hưng. Họ chỉ không nhìn biết đấy thôi.
Nhưng Đức Chúa Trời biết.
Đáp ứng giàu ơn của Đức Chúa Trời (câu 10).
Chúng ta nhìn thấy phần cuối của câu chuyện ở câu 10:
Bấy giờ Đức Chúa Trời thấy việc họ làm đều đã xây bỏ đường lối xấu của mình; Đức Chúa Trời bèn ăn năn sự họa mà Ngài đã phán sẽ làm cho họ, và Ngài không làm sự đó.
Đôi khi chúng ta vấp ngã qua sự việc nầy vì một số bản dịch xưa chép rằng Đức Chúa Trời “đã ăn năn”. Một từ hay hơn sẽ là “dịu lại". Đức Chúa Trời luôn luôn dự trù tỏ ra ơn thương xót trên người nào xây khỏi mọi lối ác của họ. Ngài đe dọa sự phán xét (là điều đáng cho họ lắm) với sự nhận biết rằng Ngài sẽ lấy làm vui tha thứ cho họ một khi họ xây lại với Ngài.
Cho phép tôi nhấn mạnh sự kiện quan trọng nhất thêm một lần nữa. Chẳng có ai lường trước được sự việc nầy cả. Ba ngày trước khi Giôna xuất hiện, trong thành Ninive mọi sinh hoạt đều bình thường. Hai ngày trước, vẫn y nguyên như thế. Một ngày trước, chẳng có người nào nghi ngại điều gì sắp xảy ra. Và vào chính ngày đó, nhà vua thức giấc trong cung điện mình sẵn sàng thực hiện bất cứ điều chi trong lịch trình của ông ta, với sự nhận biết rất ít rằng đến cuối ngày ông ta sẽ mặc áo bao gai rồi ngồi trong tro bụi, kêu gọi dân sự mình cầu nguyện và ăn năn.
Khi tôi nói “chẳng có ai biết”, tôi đã sẵn sàng thêm cụm từ “trừ ra Đức Chúa Trời".
Đức Chúa Trời vốn biết rõ mọi sự từ lâu rồi.
Ngài vốn bận rộn hành động trong thành phố tà giáo ấy đủ lâu trước khi Giôna xuất hiện.
Một vài thắc mắc và chúng ta sẽ hoàn tất.
1. Người thành Ninive biết cở nào chứ? Không quá nhiều đâu, nhưng đủ cho họ tin. Họ đã tin theo Đức Chúa Trời và đã hành động trên những gì họ tin.
2. Đức tin làm việc cở nào để được cứu? Không quá nhiều đâu, bao lâu đức tin của bạn đặt đúng đối tượng.
3. Điều nầy có thực sự xảy ra không? Giôna 3 trình bày điều nầy cho chúng ta giống như một sự kiện rất thực về mặt lịch sử. Nếu việc nầy đã xảy ra vào năm 765TC, bằng cách nào chúng ta tính quân Asiri đã tấn công Israel rồi chiếm lấy mười chi phái ở phía Bắc bắt làm phu tù một thế hệ sau đó, vào năm 722TC? Câu trả lời của tôi rất đơn giản. Đây là thời điểm của Ninive và dân sự của thế hệ ấy đã đáp ứng. Mặc dầu sự việc không kéo dài đến thế hệ kế đó, dân sự đáp ứng với sứ điệp của Giôna đã được thay đổi cho đến đời đời.
Hãy xem xét mấy lời nầy của Chúa Jêsus:
Đến ngày phán xét, dân thành Ni-ni-ve sẽ đứng dậy với người của dòng dõi nầy và lên án họ, vì dân ấy đã nghe lời Giô-na giảng dạy và ăn năn; mà nầy, ở đây có Đấng hơn Giô-na (Luca 11:32).
Tôi tin sẽ có hàng ngàn người Ninive trên thiên đàng. Đây là thời điểm của Đức Chúa Trời dành cho Ninive và họ đã đáp ứng.
Chúng ta có thể hỏi cùng một câu ấy trong chính thời buổi của chúng ta. Đâu là tương lai của nước Mỹ? Chúng ta còn có nhiều thời gian không? Đôi khi chúng ta nhìn vào sự xói mòn đạo đức ở chung quanh chúng ta rồi nghĩ rằng sự phán xét của Đức Chúa Trời không còn ở xa nữa. Có lẽ chúng ta đang ở dưới sự phán xét vào thời điểm nầy mà thậm chí chưa nhận ra nó nữa.
Nhưng phần nghiên cứu nầy về Giôna 3 đã khích lệ chúng ta theo một cách khác. Có lẽ chúng ta đang sống gần với cơn tỉnh thức quan trọng hơn là chúng ta đã tưởng tượng. Jack Wyrtzen, nhà sáng lập Word of Life, chức vụ quan trọng toàn cầu dành cho thanh niên, ông thường hay nói: “Mỗi thế hệ đều có trách nhiệm đưa thế hệ của họ về với Đấng Christ”. Nếu bạn đến viếng Trung Tâm Jack Wyrtzen đặt tại Nữu Ước, bạn sẽ nhìn thấy mấy chữ đó được khắc trên tấm hình của Jack đang rao giảng cho một đoàn dân đông ở thành phố Nữu Ước.
Nhưng tiếng của Jack giờ đây đã im bặt. Chúng ta không thể nhìn vào quá khứ rồi nhắm vào những gì người khác đã làm cho Đấng Christ. Chúng ta cũng không sống trong tương lai, suy nghĩ về những gì trẻ em hôm nay có thể làm ba mươi năm nữa tính từ bây giờ. Thế hệ duy nhứt chúng ta có thể với tới là chính thế hệ của chúng ta.
Chúng ta sẽ phải trình sổ về mọi điều chúng ta đã làm với những cơ hội Đức Chúa Trời đã ban cho.
Có phải chúng ta thôi không còn tin rằng Đức Chúa Trời có thể với tới hạng người không thể với tới được sao?
Có phải chúng ta thôi không còn tin rằng Đức Chúa Trời có thể làm được việc không thể làm?
Có phải chúng ta nhìn quanh rồi thấy mọi việc xấu xa và nói: “Đó là Ninive. Nó vô vọng sao"?
Đức Chúa Trời yêu thương Ninive!
Chúa Jêsus chạm đến hạng người không thể chạm đến. Chúa Jêsus với tới hạng người không thể với tới. Chúa Jêsus có thể cứu lấy thành Ninive.
Nhưng Đức Chúa Trời có thể cứu Giôna sao? Nếu như Đức Chúa Trời không yêu thương thế giới mà vị tiên tri lưỡng lự kia chẳng màng đến, thì sẽ ra sao? Hãy suy nghĩ lại đi. Còn có một chương khác nữa trong câu chuyện kỳ diệu của Giôna.
Lạy Chúa, xin sai phái Lời của Ngài. Xin sử dụng nhân sự Ngài. Xin biến thời điểm nầy thành thời điểm của Ngài. Xin trục xuất hết sự vô tín của chúng con. Xin thêm đức tin cho chúng con. Hãy làm lại những gì Ngài đã làm trong thời của Giôna. Xin ban cho chúng con tấm lòng dành cho thế giới nầy, đặc biệt cho các thành phố lớn trong thế gian. Nguyện chúng con không thất bại trong phần việc đến với thế hệ của chúng con vì cớ Chúa Jêsus. Chúng con cầu nguyện trong danh của Ngài, Amen!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét