Thứ Hai, 24 tháng 10, 2011

Giôna 1:4-17: "Cách Đức Chúa Trời Theo Đuổi Những Đứa Con Hoang Đàng" - Phần II


Cách Đức Chúa Trời theo đuổi
những đứa con hoang đàng! -- Phần 2
Giôna 1:4-17
Ở Phần 1 của bài giảng nầy, chúng ta đã học biết rằng trong cách xử lý với những con cái hoang đàng, Đức Chúa Trời sai giông bão đến để bắt lấy sự chú ý của chúng ta, Ngài để cho nhiều người khác phải chịu khổ vì cớ tội lỗi của chúng ta, và Ngài sai ai đó đến thách thức chúng ta. Trong trường hợp nầy, vị thuyền trưởng đã đánh thức Giôna, ông đang nằm ngủ dưới lòng thuyền rồi bảo ông hãy khởi sự cầu nguyện. Đúng là một lời quở trách! Con người trong thế gian có thể không mong muốn những bài giảng của chúng ta, nhưng khi giông tố của cuộc đời xảy đến, nhất định họ mong muốn những lời cầu nguyện của chúng ta.
Cho phép tôi kể cho bạn nghe một câu chuyện. Chúng tôi đến nhóm ở một nhà thờ Báptít ở Tupelo, bang Mississippi. Cách đây mấy năm, ca đoàn thanh niên của chúng tôi (được gọi là ca đoàn Zamar, ra từ chữ Hybálai có ý nói tới “ngợi khen”) bắt một chuyến hành trình truyền giáo vào mùa hè đến thành phố Nữu Ước. Khi tôi nghe nói về chương trình của họ, tôi liền có một ít lo lắng. Tất cả những thanh thiếu niên có bộ mặt Mississippi non nớt, tóc tai gọn gàng, vô tư kia đang nhắm tới phương Bắc để truyền giảng Tin lành.
Tôi lấy làm lạ không biết điều gì sẽ xảy ra.
Tôi yêu Nữu Ước. Thành phố to lớn, chốn hấp dẫn, song không phải vì sự ngột ngạt của tấm lòng. Tôi chẳng lấy làm lo về điều chi sẽ xảy ra, song cứ lấy làm lạ không biết dân chúng ở Nữu Ước sẽ phản ứng thế nào với những chàng trai trẻ của chúng tôi đến từ Tupelo, chúng đến thành phố với lòng hy vọng làm một việc gì đó thật tốt lành.
Chúng đã phụ giúp trong bếp nấu cháo, chúng hướng dẫn một VBS, chúng làm việc với một vài giới chức trong thành phố, và chúng có nhiều thì giờ lắm. Chúng làm việc với một nhà thờ ở khu Harlem Tây ban Nha và với một công trường truyền giáo có cơ sở ở Brooklyn.
Khi đến tại Manhattan, các cấp lãnh đạo đã đưa ra hai quyết định ra điều rất khôn khéo. Thứ nhứt, họ quyết định hát thật nhiều. Ai nấy đều yêu âm nhạc, và con cái của chúng tôi có thể thực sự ca hát. Quyết định ấy nhắm thẳng vào thành phố Nữu Ước. Họ đã ca hát trong các công viên và những khu vực công cộng khác nữa và đã phân phối miễn phí những đĩa nhạc Cơ đốc.
Thứ hai, họ quyết định cầu thay cho dân sự. Đây là những gì họ làm. Họ đã tìm những địa điểm khác nhau ở Manhattan, ở đó họ dựng lên những “trạm cầu nguyện”. Lớp thanh niên sẽ dựng lên một cái bàn lớn với tấm quảng cáo ghi là: (với những chữ in) “Trạm Cầu Nguyện".
Đấy là toàn bộ kế hoạch.
Nếu người ta đứng lại, chúng chỉ hỏi: “Chúng tôi sẽ cầu thay thế nào cho ông đây?"
Chỉ bấy nhiêu thôi. Một cái bàn ghi: “Trạm Cầu Nguyện” và một câu hỏi đơn giản: “Chúng tôi sẽ cầu thay thế nào cho ông đây?"
Dân chúng ở Nữu Ước sẽ phản ứng thế nào trước một việc đại khái như thế nầy? Mấy đứa trẻ sẽ bị thành phố cười nhạo không?
Khi sự việc diễn ra, dân chúng đứng xếp hàng chờ đợi tới phiên mình được cầu thay cho.
Điều đó không làm cho chúng ta ngạc nhiên vì hết thảy chúng ta đều cùng ở trong một chiếc thuyền. Dân chúng đang bị tổn thương, nhiều gia đình đang sống trong khủng hoảng, người ta đang phấn đấu để làm thỏa mãn mọi cứu cánh, có bịnh tật chứng nầy hay chứng khác trong từng gia đình, và ai nấy đều bị đau đớn và buồn rầu chạm đến. Như vậy, chẳng có gì khác biệt giữa thành phố lớn hay thành phố nhỏ.
Tôi nghe kể về một người kia, ông ta đã dừng lại ở đèn giao thông gần một trong những trạm cầu nguyện. Ông nghiêng người ra cửa xe rồi nói: “Tôi đang có một số rối rắm trong cuộc sống. Tôi cần các em cầu thay cho tôi. Tôi không thể dừng lại ngay bây giờ, nhưng làm ơn hãy cầu thay cho tôi”. Thế rồi đèn xanh bật lên. Khi ông ta cho xe chạy, các thanh thiếu niên hô vói theo: “Chúng tôi sẽ! Chúng tôi sẽ cầu thay cho ông!”
Bài học thật rõ ràng.
Thế gian đang chờ đợi chúng ta cầu nguyện.
Thế gian muốn chúng ta cầu nguyện.
Thế gian lấy làm lạ tại sao chúng ta không cầu nguyện.
Họ không hiểu đạo lý của chúng ta. Họ không lấy làm thích thú gì nơi các bài giảng của chúng ta. Thế gian muốn chúng ta cầu nguyện.
“Hãy tỉnh thức! Hãy tỉnh thức!”
"Bạn gọi mình là Cơ đốc nhân. Sao bạn không cầu nguyện chứ?”
"Đời tôi hỏng rồi. Tôi cần bạn cầu thay cho tôi”.
IV. Ông phô bày thái độ bất tuân của chúng ta.
Giôna giờ đây được tìm thấy qua sự bóc thăm (câu 7). Dường như việc nầy giống như một dịp may, nhưng như Châm ngôn 16:33 nhắc cho chúng ta nhớ: “Người ta bẻ thăm trong vạt áo; Song sự nhất định do nơi Đức Giê-hô-va mà đến". Việc bóc thăm có khi bao gồm việc sử dụng những quá bóng hay các hòn đá nhiều màu sắc, trộn lẫn chúng với nhau, và rồi nhìn xem coi quả bóng hay hòn đá nào rơi vào rỗ trước tiên. Theo ý nghĩa đó, việc bóc thăm giống như đổ súc sắc vậy. Dường như đây là một hành động cơ hội hơi bừa bãi, song Đức Chúa Trời đang có mặt ở đàng sau những hòn đá nhiều màu sắc kia. Ngài quyết định hòn đá nào rơi vào rỗ trước tiên. Chẳng có một sự “tình cờ” nào trong cuộc sống, không có một biến cố nào là “bừa bãi” hết, và chẳng có một việc gì là “cầu may” cả. Thậm chí những việc dường như vô nghĩa lại thích ứng trong chương trình của Ngài. Chúng ta phải đóng ngoặc kép Châm ngôn 16:33 theo cách nầy: “Cuộc sống giống như hột súc sắc quay tròn, nhưng Đức Chúa Trời quyết định cách thức những con số sẽ nhảy ra”.
Thế là bị “lòi ra” do việc bóc thăm, Giôna xưng nhận lại lịch thật của mình. Ông đã nói cho họ biết rồi, ông đang trốn chạy khỏi mặt Chúa, vì vậy giờ đây ông nói cho họ biết thực sự ông là ai:
“Ta là người Hê-bơ-rơ, và ta kính sợ Đức Giê-hô-va, là Đức Chúa Trời trên trời, Ngài đã làm nên biển và đất khô” (câu 9).
Cách thức Đức Chúa Trời làm việc há chẳng đáng kinh ngạc sao? Chúng ta có thể bỏ chạy và bỏ chạy và bỏ chạy, nhưng Ngài sẽ đem chúng ta trở lại và trở lại tại chỗ mà sau cùng chúng ta phải nói ra lẽ thật. Giôna đã sống như một người theo tà giáo, nhưng thực ra những người theo tà giáo còn sống cao hơn cấp độ sống của ông nữa là.
Có một cách khác để thổ lộ điều nầy. Bạn có thể là một kẻ theo tà giáo hay bạn có thể là một Cơ đốc nhân, nhưng bạn không thể là cả hai cùng một lúc được. Đây là phần ứng dụng thật đơn giản:
“Nếu bạn muốn là một Cơ đốc nhân, hãy là một Cơ đốc nhân!”
Nếu bạn muốn là một Cơ đốc nhân, hãy mặc lấy bộ đồng phục rồi dấn thân vào cuộc chơi. Và nếu bạn không muốn trở nên như thế, hãy trả lại bộ đồng phục rồi hãy hiệp cùng một đội nào khác đi. Thế gian trông mong bạn hành động như một Cơ đốc nhân. Chúng ta thực sự có thể củng cố câu nói ấy theo cách nầy. Thế gian muốn bạn hành động giống như bạn nói mình là ai vậy.
“Nếu bạn muốn là một Cơ đốc nhân, hãy là một Cơ đốc nhân!”
Hãy sống giống như một Cơ đốc nhân.
Hãy hành động giống như một Cơ đốc nhân.
Hãy nói năng giống như một Cơ đốc nhân.
Hãy cầu nguyện giống như một Cơ đốc nhân.
Nếu bạn muốn kêu cầu danh Chúa, hãy kêu cầu danh ấy. Hoặc giả, hãy đi hiệp cùng một đội nào khác đi. Tại sao làm lộn xộn đủ thứ khi tự gọi mình là Cơ đốc nhân mà không sống giống như một Cơ đốc nhân?
Thế gian đang trông đợi những tín đồ thật, những người không lấy làm xấu hổ khi đứng hiên ngang cho những gì họ dám tin. Dân sự của thế gian mong muốn những Cơ đốc nhân phải sống “thật”.
Giờ đây, hãy nhìn vào những việc xảy ra kế đó. Nhiều việc ngày càng tệ hại hơn cho Giôna.
V. Ngài buộc chúng ta đối mặt với những hậu quả của sự lựa chọn dại dột của chính chúng ta.
Giôna biết mọi sự đều do lỗi lầm của ông. Vì vậy, khi các thủy thủ hỏi họ phải làm gì để cho biển bình tịnh trở lại, ông đưa ra giải pháp duy nhứt có ý nghĩa:
“Hãy bắt lấy ta; hãy ném ta xuống biển, thì biển yên lặng cho các anh; vì ta biết rằng ấy là vì cớ ta mà các anh đã gặp phải trận bão lớn nầy” (câu 12).
Nhưng đấy chẳng phải là điều họ đã làm, ít nhất không phải là ngay liền khi đó.
“Những người ấy bắt tay chèo vào bờ; song không được, vì biển càng nổi lên nghịch cùng họ mãi” (câu 13).
Khi Giôna nói: “Hãy ném ta xuống biển”, những người theo tà giáo chẳng chịu làm theo việc ấy. Họ khởi sự chèo vào bờ. Ở điểm nầy, kẻ bất kỉnh còn có lòng thương xót hơn vị tiên tri của Đức Chúa Trời. Họ quan tâm đến ông nhiều hơn là ông quan tâm đến họ.
Đồng thời, phải cẩn thận về việc quyết định ai ở bên cạnh Đức Chúa Trời và ai không ở bên cạnh Ngài. Đừng mau chóng nhảy đại vào những kết luận về người khác. Có những sự việc không luôn luôn y như chúng xuất hiện ở mặt ngoài đâu. Hãy xem xét câu chuyện nầy trong một phút xem. Có một lời cầu nguyện và chỉ có một lời cầu nguyện được ghi lại ở Giôna 1. Và ấy chẳng phải Giôna là người thực hiện sự cầu nguyện. Mà chính những người theo tà giáo kìa.
Đừng cho rằng bạn có thể xét đoán tấm lòng của mọi người sống chung quanh bạn. Hãy để cho Đức Chúa Trời thực thi việc xét đoán. Có khi những người theo “tà giáo” còn hành động với nhiều sự thương xót hơn là những kẻ được gọi là “người tin Chúa” nữa.
Đây là cách những thủy thủ đã cầu nguyện:
“Hỡi Đức Giê-hô-va, chúng tôi nài xin Ngài, chúng tôi nài xin Ngài chớ làm cho chúng tôi chết vì cớ mạng sống của người nầy, và chớ khiến máu vô tội đổ lại trên chúng tôi! Hỡi Đức Giê-hô-va, vì chính Ngài là Đấng đã làm điều mình muốn” (câu 14).
Trong ngôn ngữ Hybálai, có một số từ khác nhau nói đến Đức Chúa Trời: El, Elohim, Yahweh, và còn nhiều nữa. Yahweh là danh giao ước của Đức Chúa Trời. Đây là danh xưng người Do thái sử dụng khi họ nói tới Đức Chúa Trời là Đấng đã đưa ra những lời hứa với Israel. Đây là danh thánh khiết nhất nói tới Đức Chúa Trời trong Cựu Ước. Đây là danh của Đức Chúa Trời khi Ngài gặp Môise trên Núi Sinai ở Xuất Êdíptô ký 3. Ba lần từ ngữ Hybálai “Yahweh” được sử dụng ở câu 14:
“Họ bèn kêu cầu Đức Giê-hô-va”.
“Hỡi Đức Giê-hô-va”
"Hỡi Đức Giê-hô-va, vì chính Ngài”
Họ đã kêu la với Đức Chúa Trời của Kinh thánh, với Chúa của Israel hay giữ giao ước. Có phải bạn đang nhìn thấy những gì đang xảy ra ở đây? Ở câu 5, mỗi người kêu la với “thần của mình”, nhưng qua câu 14, những thủy thủ đã khởi sự cầu nguyện với Đức Chúa Trời của Israel, là Chúa của các chúa chơn thật duy nhứt. Đấy là một sự thay đổi thật là lạ lùng. Khi Giôna bắt đầu thức giấc rồi tỉnh táo về mặt thuộc linh, Đức Chúa Trời hành động trong tấm lòng của những kẻ theo tà giáo đến nỗi họ bắt đầu kêu la với Ngài trong nỗi thất vọng.
Thế là chúng ta đang nhìn thấy bàn tay cao cả của Đức Chúa Trời đang hành động trong từng chi tiết của tình huống nầy. Chúa thường sử dụng những thời điểm thất vọng khiến cho nhiều người phải tỉnh thức để họ phải kêu cầu với Ngài. Ở đây, Ngài đang làm điều đó cho Giôna và cũng cho những thủy thủ theo tà giáo thình lình không trông mong vào tà giáo nữa. Hãy kiểm tra lại thần đạo của họ ở cuối lời cầu nguyện của họ:
“Hỡi Đức Giê-hô-va, vì chính Ngài là Đấng đã làm điều mình muốn” (câu 14).
Mới đây thôi, những người nầy đang thờ lạy thần của họ. Giờ đây, họ công bố quyền tể trị của Đức Chúa Trời chơn thật duy nhứt.
Vì vậy, họ đã ném Giôna xuống biển và câu kế tiếp chép rằng “sự giận dữ của biển yên lặng” (câu 15). Chúng ta tiếp thu hai điểm quan trọng ở đây, một từ Giôna và một từ những thủy thủ. Từ phía Giôna, chúng ta tiếp thu được lẽ thật quan trọng nầy: Giông bão cứ tiếp tục cho tới chừng bạn thôi không trốn chạy khỏi Đức Chúa Trời nữa. Nói chung, chúng ta có chuyến ra khơi rất thú vị khi lần đầu tiên chúng ta đi theo đường riêng mình. Có nhiều thứ dường như phủ đầy hoa hồng, và cuộc sống là tốt lành vì sự bất tuân đem lại một phần thưởng nhất thời. Nhưng giông bão chẳng chóng thì chày sẽ xảy đến, và những trận bão ấy được Đức Chúa Trời gửi đến giống như một sự thương xót nghiêm ngặt để đem chúng ta trở lại với sự tỉnh ngộ rồi dẫn chúng ta đến chỗ phải ăn năn. Mặc dù chuyến hành trình vào trong tội lỗi có thể khởi sự với một sự tán tụng, nó luôn luôn kết thúc với một trận bão đầy thịnh nộ. Đức Chúa Trời vốn biết chắc về sự ấy.
Từ phía các thủy thủ, chúng ta nhìn thấy một việc đáng ngạc nhiên xảy ra:
“Vì vậy mà những người ấy rất kính sợ Đức Giê-hô-va. Họ dâng của lễ cho Đức Giê-hô-va, và hứa nguyện cùng Ngài” (câu 16).
Từ ngữ ở đây mới thực sự là vấn đề. Từ ngữ Hybálai nói tới Đức Giêhôva là “Yahweh”, danh xưng nói tới Đức Chúa Trời của Israel. Trong khi Giôna đang hì hụp nhấp nhô dưới biển, một cơn phấn hưng nổ ra ở trên thuyền. Thình lình chiếc thuyền ấy đầy dẫy với những người thờ lạy sốt sắng Đức Chúa Trời chơn thật duy nhứt. Và chiếc thuyền ấy sẽ đi đâu chứ? Nó vẫn hướng tới Tarêsi.
Đức Chúa Trời cũng yêu thương Tarêsi nữa!
Giờ đây, Ngài đưa chuyến hành trình truyền giáo đi theo hướng đó.
Hãy quan sát xem cách thức câu chuyện nầy chuyển hướng. Các thủy thủ tà giáo giờ đây đang thờ lạy Đức Giêhôva trong khi vị tiên tri lưỡng lự của Israel đang hì hụp dưới biển.
Trong khi các thủy thủ ngợi khen Đức Chúa Trời, con tàu dong buồm ngang qua đường chân trời, bỏ Giôna lại lội bì bõm ở giữa biển.
Giôna rất mong được chết. Thực sự đấy là chỗ ở tốt lành cho ông. Lẽ ra ông trốn chạy khỏi mặt Đức Chúa Trời thì bây giờ phải gục chết dưới biển.
VI. Ngài tỏ ra ân điển của Ngài ở giữa sự phán xét.
Đây là chi tiết của câu chuyện mà chúng ta biết rõ nhất:
“Đức Giê-hô-va sắm sửa một con cá lớn đặng nuốt Giô-na; Giô-na ở trong bụng cá ba ngày ba đêm” (câu 17 trong bản Kinh thánh Anh ngữ, bản Việt ngữ là Giôna 2:1).
Hãy lưu ý rằng câu Kinh thánh không nói Chúa “dựng nên” con cá lớn. Câu ấy chép rằng Đức Chúa Trời đã “sắm sửa” một con cá lớn. Kinh thánh không nói đó là một con cá voi. Có thể là con cá voi, song chúng ta không dám chắc. Chúng ta tập trung vào lai lịch của con cá khi rõ ràng đấy chẳng phải là vấn đề.
Tôi hình dung Chúa đang phán với con cá lớn: “Ta có một việc cho người phải lo làm”. “Tuân lịnh, thưa Ngài”. Vì vậy, Ngài đã ban cho con cá tọa độ GPS rồi phán: “Hãy đến đó đặc biệt là thời điểm nầy đây”. “Tuân lịnh, thưa Ngài”. “Có một người rơi xuống trước mặt ngươi. Ta muốn ngươi nuốt trọng hắn, nhưng đừng nhai hắn. Và khi ấy ta sẽ ban cho người huấn thị khác sau đó”. “Tuân lịnh, thưa Ngài”.
Như với mọi sự khác trong câu chuyện nầy, con cá tuân theo Đức Chúa Trời tốt hơn là Giôna.
Ai sai bảo con cá lớn? Đáp: Chính Thân Vị sắp đặt chiếc thuyền, chính Thân Vị sắp đặt lá thăm bóc nhằm Giôna, và chính Thân Vị đã sai giông bão đến. Đức Chúa Trời đã làm hết mọi sự đó.
Tại sao Ngài sai phái con cá chứ? Thứ nhứt, để giải cứu Giôna khỏi biển cả. Nếu Ngài không phái con cá đến, Giôna sẽ gục chết ở trong biển. Thứ hai, để đem Ngài đến với sự ăn năn.
Khi tôi bắt đầu sứ điệp bằng cách trưng dẫn bài thơ có đề tựa là “Đứa Con Hoang Đàng”, cho phép tôi kết thúc bằng cách trưng dẫn bài thơ khác, bài thơ nầy được nhiều người biết đến. Đây là một vài dòng từ bài thơ “Cuộc Truy Lùng Của Thiên Đàng” do Francis Thompson viết:

Tôi trốn khỏi Ngài, qua nhiều ngày đêm;
Tôi trốn khỏi Ngài, trải qua nhiều năm tháng;
Tôi trốn khỏi Ngài,
qua những con đường lắm mê cung
Theo ý riêng của tôi; và ở giữa nhiều nước mắt
Tôi trốn khỏi Ngài, và dưới nhiều tiếng cười khan.
Tôi lao đi với tốc độ hy vọng sáng lạn
Và thật vội vã,
Tới những chỗ nứt mờ mờ của con tàu Titanic,
Cứ nối, nối theo sau các bàn chơn mạnh mẽ kia.
Nhưng với sự săn đuổi không vội vã gì hết,
Và với nhịp độ vững chắc,
Với tốc độ thận trọng, khẩn trương oai nghi,
Chúng nhịp – và một Giọng Nói rung lên
Cấp bách hơn cả bàn chơn –
“Mọi sự đang lừa dối ngươi, là kẻ phản bội Ta”.
Nếu người cứ trốn chạy, ta sẽ nhận được những tin tức tốt lành.
Không bao giờ là quá trễ để thôi không trốn chạy khỏi Đức Chúa Trời.
Đừng chờ đợi giông bão đến.
Đừng chờ đợi con cá lớn đến.

Đây là lời lẽ hy vọng cho những ai là thân hữu và người thân thương nào đang ở vào thời điểm trốn chạy, trốn chạy, trốn chạy khỏi Chúa mau như họ có thể. Khi tôi công bố trên trang Facebook của tôi rằng tôi sẽ rao giảng với đề tài “Cách Đức Chúa Trời theo đuổi những đứa con hoang đàng!” một người bạn đã viết gửi đến mấy lời nầy:
“Có ai biết chỗ mua một con bò mập béo không? Chúng tôi muốn sẵn sàng để tổ chức tiệc tùng cả một ngày luôn”.
Đấy chính xác là thái độ đúng đắn cần phải có. Và đồng thời, hãy tự yên ủi mình với tư tưởng nầy về những đứa con hoang đàng trong đời sống của bạn:
Đức Chúa Trời biết chúng đang ở đâu.
Đức Chúa Trời biết chúng đang làm gì!
Đức Chúa Trời biết cách thức để đến với chúng.
Đức Chúa Trời biết cách thức đem chúng trở về.
Giữa lúc bây giờ và khi ấy, đừng bao giờ thối lui.
Đừng bao giờ thối lui.
Hãy vững tin.
Hãy cứ giữ sự cầu nguyện.
Và tự mình lo liệu một con bò mập béo rồi thả nó ra ngoài đồng cỏ. Hãy vỗ béo con bò ấy trong khi bạn ngồi đợi cái ngày phước hạnh, khi Đức Chúa Trời sẽ chìa bàn tay mạnh sức của Ngài và đem những đứa con trai con gái đi hoang sau cùng trở về quê nhà.
Lạy Cha, như Ngài đã làm cho Giôna, giờ đây hãy làm những người thân yêu của chúng con. Thậm chí sau một sứ điệp như sứ điệp nầy, cảm thấy vô vọng là điều rất dễ dàng. Dường như họ xa xôi lắm đối với Ngài. Dường như họ có một thời điểm tốt lành lắm. Nhưng Ngài biết chỗ họ ở đâu. Ngài biết cách thức rờ đụng đến họ. Hãy làm bất cứ điều chi cần có để đem họ về quê nhà với Ngài.
Xin ban cho con ân điển để chờ đợi và đức tin để tin theo và lòng tin cậy ngày càng tăng để một ngày kia con bò mập béo đó sau cùng sẽ được đem ra sử dụng. Nguyện chúng con không hề thôi hy vọng, song cứ giữ lòng tin rằng y như Ngài đem Giôna trở lại, Ngài sẽ làm y như thế cho những đứa con hoang đàng mà chúng con yêu thương nhiều lắm.
Trong danh Chúa Jêsus, Amen.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét